Các ngôn ngữ

Trang này được tạo ra sử dụng dữ liệu Wikimapia. Wikimapia là một dự án bản đồ mở được đóng góp bởi những người tình nguyện khắp thế giới. Nó chứa đựng những thông tin về 32514190 địa điểm và liên tục được cập nhật. Tìm hiểu thêm về Wikimapia và hướng dẫn về thành phố.

Bình luận gần đây về Thành phố Huế

  • CTCPTV Xây Dựng, tuanminhhue đã viết 14 năm trước:
    Với những thiết kế chuyên sâu, sáng tạo đặc biệt, Công ty đã góp một phần không nhỏ cho việc chỉnh trang, tôn tạo bộ mặt kiến trúc Tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhiều công trình của Công ty thiết kế đạt giải thưởng của Trung Ương, Tỉnh và Thành phố. Công ty luôn mong muốn mang đến sự thỏa mãn, hài lòng mọi khách hàng với những ý tưởng đa dạng mang phong cách riêng, với những nét hiện đại kết hợp với văn hóa truyền thống đặc trưng giúp cho khách hàng hướng đến một không gian sống và làm việc hoàn hảo. Với lịch sử 35 năm hình thành và phát triển, bằng những nổ lực không mệt mỏi của đội ngủ kiến trúc sư, kỹ sư, họa sỹ thiết kế năng động và nhiều kinh nghiệm, chúng tôi đã từng bước khẳng định chất lượng dịch vụ và uy tín tuyệt đối với khách hàng.
  • Chợ Gia Lạc, sagovina đã viết 14 năm trước:
    Mồng 1, mồng 2 Tết, khi các chợ nói chung đều vắng, thì chợ Gia Lạc, ở thôn Nam Thượng, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế, lại họp đông đúc. Và mỗi năm, chợ chỉ họp đúng ba ngày, sau đó giải tán chờ đến năm sau. Gia Lạc, nghĩa là "thêm vui", còn có ý nghĩa là “nhà nhà an vui”, nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 3 km về hướng Vĩ Dạ và cách bờ sông Hương khoảng 300 m. Theo sử sách, chợ do Định Viễn Quận vương Nguyễn Phước Bình - con thứ 6 của Vua Gia Long lập ra dưới thời Minh Mạng (Tết Nguyên đán Bính Tuất, năm 1826). Định Viễn Quận vương cũng là người gắn liền với câu ca làm bao nhiêu người thắc mắc: "Chợ Dinh bán áo con trai". Chợ Dinh thời ấy có bao nhiêu là hàng hóa, nhưng chỉ mỗi "áo con trai" là được nhắc đến. Có người giải thích rằng: Định Viễn Quận vương thời gian đầu hiếm muộn con, nên thường bỏ tiền mua toàn lụa may áo con trai rất đẹp, sau đó đem qua chợ Dinh ban rất rẻ để cầu phúc, cầu tự. Sau này, khi sinh được công tử Tĩnh Cơ, Định Viễn Quân vương mới sinh liền một mạch... 42 con trai và 31 con gái. Người ta đến với chợ Gia Lạc không chỉ đơn thuần vì nhu cầu mua - bán, mà vì thói quen, vì một tập tục đã có từ lâu đời. Họ lấy vui, lấy việc cầu may làm chính nên ai nấy đều ăn mặc chỉnh tề, đặc biệt là việc đi lại, nói năng trao đổi với nhau đều ý tứ, lịch thiệp. Chú thích thêm: Vị trí chính xác của chợ Gia Lạc kéo từ chợ Nam Phổ đến chợ Mai, dưới dốc cầu chợ Dinh. Chợ Nam Phổ và Chợ Mai thì họp quanh năm, nhưng chợ xuân đặc biệt với tên gọi cũ là Gia Lạc thì chỉ diễn ra 3 ngày Tết. Hai địa danh Nam Phổ và chợ Dinh gần nhau và cũng gắn với câu ca dao nổi tiếng: “Mua cau nam Phổ mua trầu chợ Dinh”: Trầu ở chợ Gia Lạc là loại trầu Hương thơm ngon, lá lục, bán cao giá hơn các loại trầu khác. Đấy là trầu chợ Dinh, đi liền với cau Nam Phổ, hai món hàng quý phái và đắt giá đến nỗi, các bà đi chợ thời trước phải than: “Cau Nam Phổ mỗi trái mỗi giác/ Trầu chợ Dinh mỗi lá mỗi tiền”. (Sagovina với tên người đăng ký là Lê Minh Đức (Midu-PR) ở ngay chợ Mai, tổ tiên về lập nghiệp từ hàng trăm năm trước, có cố nội xưa là quan tri huyện nhà Nguyễn, nên nắm rõ “nội tình” của chợ Gia Lạc – chợ Mai)
  • Thành Phật Thệ (Kandapurpura), thachhan120282 đã viết 14 năm trước:
    Nếu như chẳng có dòng Hương. Câu thơ xứ Huế nửa đường đánh rơi ...
  • Nghĩa Trang, Ty (khách) đã viết 14 năm trước:
    Ai can lien he: 0983449369
  • Cửa Hữu - Tây Nam Môn, quynh (khách) đã viết 14 năm trước:
    Cửa Hữu và Chánh Tây đều có cổng thành.
  • Trường Phú Cát, duchue (khách) đã viết 14 năm trước:
    Đây là một sự nhầm lẫn ! Đây không phải là Trường THPT Gia Hội ở Huế, mà là Trường Tiểu Học Phú Cát (Trước đây tên trường này là Trường Tiểu Học Gia Hội).
  • Trường Quốc Học, lechidiem đã viết 15 năm trước:
    Tui học ở đây từ 1981-1987, là học sinh chuyên toán tỉnh Bình Trị Thiên (cũ). Thời kỳ này chuyên toán BTT rất nổi tiếng toàn quốc. Các anh Lê Bá Khánh Trình, Lê Tự Quốc Thắng cũng học ở đây. Tui ở trọ tập thể ở đây trong thời gian dài nên rất quen thuợc mọi thứ trong trường. Hồi đó trường có mấy cây xà cừ rất to. Bọn trẻ tụi tui phải 3 thằng mới ôm hết gốc xà cừ. Rất tiếng đã bị bật gốc vào các trận bão lụt rất lớn năm 1983, 1985. Bữa này không biết có còn cây xà cừ nào không. Lâu rồi không có điều kiện về thăm lại trường, nhớ thật. Chúc tất cả thầy cô, học sinh của trường sức khoẻ, dạy tốt học tốt và luôn phát huy những truyền thống vẽ vang của trường. lechidiem@yahoo.com
  • Cầu Tam Giang (cầu Ca Cút), komedo (khách) đã viết 15 năm trước:
    Có cái cầu này người dân Ngũ Điền thoát khỏi cảnh đi đi đò ngang rồi. Mừng quá!
  • Cồn Dã Viên, người Huế đang ở Huế (khách) đã viết 15 năm trước:
    Hiện nay (2010) ở vị trí Cồn Dã Viên đang xây dựng 1 cây cầu đường bộ song song với cây cầu đường sắt. Hy vọng trong năm 2011 sẽ khánh thành cây cầu đường bộ này!
  • Công viên 3 - 2, NguyenDongA đã viết 15 năm trước:
    Mới chỉ một lần đến Huế, mới thấy Huế đúng như trong những bài hát đã từng nghe về Huế. Vô cùng ấn tượng!
  • Cầu Phú Xuân, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Cầu Phú Xuân hay cầu Mới, cùng với cầu Trường Tiền và cầu Dã Viên, là một trong ba chiếc cầu bắc qua dòng sông Hương của tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Vào năm Mậu Thân (1968), sau khi cầu Trường Tiền bị đặt mìn đánh sập, người ta đã thiết lập một cầu phao ở vị trí cầu Phú Xuân hiện nay với trọng tải khá lớn dùng để phục vụ cho mục đích dân sự và quân sự. Cầu phao này được dùng trong hai năm 1968 và 1969. Bấy giờ, chính quyền thị xã Huế thấy rằng cần thiết phải thay thế cầu phao ấy bằng một chiếc cầu kiên cố để đáp ứng nhu cầu giao thông và nhu cầu phát triển của đô thị Huế cũng như các vùng phụ cận. Do đó, vào năm 1970, cầu Phú Xuân đã được hãng Eiffel của Pháp thiết kế và tổ chức thi công. Cầu được xây dựng trong hai năm thì hoàn thành và đưa vào sử dụng. Cầu được xây dựng bằng bêtông cốt thép. Cầu dài 374,65m, rộng 17m, riêng lòng cầu rộng 12m; tải trọng của cầu là 18 tấn. Hai bên cầu đều có lề dành cho người đi bộ và có xây lan can để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông. Từ 1971 đến nay, cầu Phú Xuân được tu bổ nhiều lần, lần tu bổ lớn gần đây nhất là năm 1998. Năm 2009, cầu cũng được tu bổ thêm một phần. Lúc mới xây xong (1971), cầu được đặt tên theo tên dòng sông mà nó bắc qua, cầu Sông Hương. Sau năm 1975, nó được chính quyền đổi tên là cầu Phú Xuân. Nhưng từ ngày chiếc cầu này hoàn thành, người dân địa phương thường gọi một cách nôm na, dễ nhớ, ngắn gọn là cầu Mới, với hàm ý là chiếc cầu được xây dựng gần đây nhất so với cầu Trường Tiền và cầu Dã Viên. Nhưng cầu Phú Xuân khá quan trọng đối với việc giao thông vận tài bằng đường bộ của cư dân thành phố Huế, đồng thời là chiếc cầu huyết mạch nằm trên Quốc lộ 1A nối liền Nam Bắc
  • Hồ Tịnh Tâm, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Hồ Tịnh Tâm là một di tích cảnh quan được kiến tạo dưới triều Nguyễn. Dưới thời vua Thiệu Trị đây được xem là một trong 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh. Trước đây, hồ nguyên là vết tích của đoạn sông Kim Long chảy qua Huế. Đầu thời Gia Long, triều đình cho cải tạo một số đoạn sông và khơi dòng theo hướng khác để tạo thành Ngự Hà và hồ Ký Tế. Hai bãi nổi trong hồ này được dùng làm nơi xây dựng kho chứa thuốc súng và diêm tiêu. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ. Năm 1838, vua Minh Mạng cho di dời hai kho sang phía đông, tái thiết nơi này thành chốn tiêu dao, giải trí và gọi là hồ Tịnh Tâm. Hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1500m, trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch. Bốn mặt có bốn cửa gồm cửa Hạ Huân ở phía nam, cửa Đông Hy ở phía bắc, cửa Xuân Quang ở phía đông và cửa Thu Nguyệt ở phía tây. Xung quanh các đảo trên hồ và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ, dưới hồ trồng sen trắng. Đảo Bồng Lai ở phía nam hồ, chính giữa có điện Bồng Doanh. Điện có kiến trúc 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu li, điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước có cửa Bồng Doanh, cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông. Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa và một cây cầu mang tên Hồng Cừ. Đảo Phương Trượng: giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu li. Phía nam có cửa Bích tảo và cầu Bích tảo. Phía bắc đảo có lầu Tịnh tâm, xây mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc. Đảo Doanh Châu: Giữa hồ Tịnh tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam, đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác, là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu. Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, tinh mỹ, hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ 19. Cảnh đẹp của hồ đã tạo nguồn thi hứng và trở thành đề tài cho nhiều bài thơ, chùm thơ nổi tiếng của các vua Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức... Nổi bật nhất là bài "Tịnh hồ hạ hứng", nằm trong chùm thơ ca ngợi 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh của vua Thiệu Trị. Bài thơ này cùng với phong cảnh hồ Tịnh Tâm được vẽ vào tranh gương để treo ở các cung điện. Tịnh hồ hạ hứng - 淨湖夏興 Trừng luyện hàm không nhất vọng xa Thiềm nha ảnh thủy trám tinh hà Lâu đài hoa thụ trường sinh cảnh Thiên địa sơn hà tứ hải gia Vũ phiến mạn giao thi hóa nhật Thuấn cầm uyển nhĩ nhập thi ca Y nhiên nhân trí tình vô hạn Đồng lạc giao phu thảo vật gia. (Thiệu Trị hoàng đế)
  • Điện Thái Hòa, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Quá trình xây dựng và trùng tu điện Thái Hòa được chia làm 3 thời kỳ chính; mỗi thời kỳ đều có những thay đổi lớn, cải tiến về kiến trúc và trang trí. Vua Gia Long khởi công xây dựng vào ngày 21 tháng 2 năm 1805 và hoàn thành vào tháng 10 cùng năm. Năm 1833 khi vua Minh Mạng quy hoạch lại hệ thống kiến trúc cung đình ở Đại Nội, trong đó có việc cho dời điện về mé nam và làm lại đồ sộ và lộng lẫy hơn. Năm 1923 dưới thời vua Khải Định để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần Đại khánh tiết của nhà vua (mừng vua tròn 40 tuổi) diễn ra vào năm 1924, điện Thái Hoà đã được "đại gia trùng kiến". Qua các đợt trùng tu lớn nói trên và nhiều lần trùng tu sửa chửa nhỏ khác dưới thời vua Thành Thái, Bảo Đại và trong thời gian gần đây (vào năm 1960, 1970, 1981, 1985 và 1992) điện Thái Hòa đã ít nhiều có thay đổi, vẻ cổ kính ngày xưa đã giảm đi một phần. Tuy nhiên, cốt cách cơ bản của nó thì vẫn còn được bảo lưu, nhất là phần kết cấu kiến trúc và trang trí mỹ thuật. Điện Thái Hòa là biểu trưng quyền lực của Hoàng triều Nguyễn. Điện, cùng với sân chầu, là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi quan trọng của triều đình như: lễ Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Vào những dịp này, nhà vua ngồi uy nghiêm trên ngai vàng. Chỉ các quan Tứ trụ và những hoàng thân quốc thích của nhà vua mới được phép vào điện diện kiến. Các quan khác có mặt đông đủ và đứng xếp hàng ở sân Đại triều theo cấp bậc và thứ hạng từ nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Tất cả các vị trí đều được đánh dấu trên hai dãy đá đặt trước sân chầu. Điện Thái Hòa là biểu trưng quyền lực của Hoàng triều Nguyễn. Điện, cùng với sân chầu, là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi quan trọng của triều đình như: lễ Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Vào những dịp này, nhà vua ngồi uy nghiêm trên ngai vàng. Chỉ các quan Tứ trụ và những hoàng thân quốc thích của nhà vua mới được phép vào điện diện kiến. Các quan khác có mặt đông đủ và đứng xếp hàng ở sân Đại triều theo cấp bậc và thứ hạng từ nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Tất cả các vị trí đều được đánh dấu trên hai dãy đá đặt trước sân chầu. Cung điện được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ bằng 80 cột gỗ lim được sơn thếp và trang trí hình rồng vờn mây - một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng đế và quần thần đúng như chức năng vốn có của ngôi điện. Nhà trước và nhà sau của điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vỏ cua. Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ làm theo kiểu "vì kèo cánh ác", nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì kèo "chồng rường - giả thủ" được cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, xuyên trến ở đây đều liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng mẹo chắc chắn. Mái điện lợp ngói hoàng lưu ly, nhưng không phải là một dải liên kết mà được chia làm ba tầng chồng mí lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái "chồng diêm", mục đích là để tránh đi sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng thời để tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo giác chiều cao cho tòa nhà. Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh bốn mặt của tòa nhà. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để trang trí hình vẽ và thơ văn trên những tấm pháp lam (đồng tráng men nhiều màu) theo lối nhất thi nhất họa. Điện Thái Hòa mặt trướcTrang trí cũng như kiến trúc của điện Thái Hòa nói chung, có một khái niệm đặc biệt đáng chú ý là con số 5, và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của điện. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành đi ra điện Thái Hòa, vua phải bước lên một hệ thống bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái đình và Đệ nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp. Đứng ở sân Đại triều nhìn vào hay từ phía Tử Cấm Thành nhìn ra người ta đều thấy trên mỗi mái điện đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ phù đội bầu rượu, lưỡng long chầu mặt nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…Ở nội điện cũng thế, từ ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ chung quanh cho đến mỗi mặt của ba tầng bệ mỗi nơi đều trang trí một bộ 9 con rồng. Ngày nay, Điện Thái Hoà trở thành một điểm du lịch nổi tiếng.
  • Ga Huế, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Nhà ga lớn ở Huế lập vào năm 1906 nằm trên tuyến đường sắt xuyên Việt. Đây là đầu mối giao thông quan trọng, là địa điểm liên lạc các tổ chức yêu nước qua các thời kỳ chống thực dân Pháp liên lạc các tổ chức yêu nước qua các thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Trung Kỳ và thành phố Huế. Đến năm 1945, Ga Huế được mang tên ga Trần Cao Vân, nơi đưa tiễn hàng vạn thanh niên yêu nước lên đường Nam tiến, chiến đấu chống giặc Pháp và kẻ thù cướp nước khác. Bấy giờ thuộc Đệ Cửu, nay thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế.
  • Trường Quốc Học, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Trường Quốc học Huế tọa lạc bên bờ Sông Hương, trên đường Lê Lợi, thuộc phường Vĩnh Ninh, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đặc điểm: Trường Quốc học Huế ra đời trong âm mưu nô dịch văn hoá của thực dân Pháp và tồn tại hơn một thế kỷ. Trường từng là nơi học tập của nhiều chiến sĩ cách mạng, nhiều nhà hoạt động văn hóa xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp Trường Tiểu học Pháp - Việt Ðông Ba, trò Nguyễn Sinh Cung (hay Nguyễn Tất Thành, tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ấy) thi đậu vào học tại trường Quốc học Huế. Hồi ấy, trường có hai dãy nhà lợp tranh, tường gạch, cột gỗ, nhìn ra sông Hương và nằm song song với đường Jules Ferry, nay là đường Lê Lợi. Cổng trường xây hai tầng, tầng trên treo tấm bảng khắc chữ Trường Quốc Học sơn son thếp vàng, hai bên đắp nổi hai con rồng bằng mảnh sứ... Nay trên bức tường rào phía phải cổng chính còn tấm “bình phong”... Trường Quốc Học thành lập nhằm đào tạo lớp người phục vụ cho chính quyền thực dân phong kiến, nên trong chương trình khi ấy, Pháp văn là môn học chính; giáo viên phần lớn là người Pháp. Trường đặt dưới quyền kiểm soát của viên Khâm sứ Trung Kỳ. Trong nghị định của Phủ Toàn quyền Ðông dương cũng quy định rõ điều kiện của học sinh được nhận vào trong trường Quốc Học là: Công tử con các Hoàng thân Tôn sanh con các Hoàng gia Ấm tử con các quan Học sinh các trường Thành nhơn và Quốc tử giám Năm 1915 khi có sắc lệnh bãi bỏ các kỳ thi hương hội ở Bắc Kỳ thì trường Quốc học được xây dựng lại. Những dãy nhà tranh được phá bỏ, thay thế vào đó là hai dãy lầu xây gạch, lợp ngói kiên cố đầy đủ tiện nghi theo kiểu Tây Âu. Về cơ bản các kiến trúc đó được duy trì đến ngày nay. Năm 1932 trường mở các lớp chuyên khoa và đổi tên là Trường Trung học Khải Ðịnh. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ (19/12/1946), trường phân tán thành hai nơi, đi theo kháng chiến: Một chi nhánh đệ nhất cấp lấy tên là trường Bình Trị Thiên đóng tại Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Một chi nhánh đệ nhị cấp tức là bộ phận chính của trường mang tên trường Huỳnh Thúc Kháng đóng tại Ðức Thọ (Hà Tĩnh). Bộ phận ở lại Huế sau 10 năm bị gián đoạn. Thực dân Pháp chiếm trường làm đồn bốt. Ngày 29/4/1955 trường mới khôi phục hoạt động bình thường cho đến ngày nay. Ngày nay trường Quốc học Huế vẫn tiếp tục phát triển truyền thống tốt đẹp trong việc chăm lo đào tạo thế hệ trẻ. Từ nhiều năm nay, trường đã mở các lớp chuyên thu hút các học sinh có năng khiếu cả tỉnh về học tập và bồi dưỡng, góp phần chăm lo đào tạo tài năng cho tỉnh và đất nước.
  • Trường Đại Học Sư Phạm Huế, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Trường Đại học Sư phạm Huế trước đây là Phân khoa Trường Đại học Sư phạm trực thuộc Viện Đại học Huế, được thành lập vào năm 1957. Năm 1975, sau ngày thống nhất đất nước, Trường Đại học Sư phạm Huế chính thức được thành lập theo quyết định số 426/TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ngày 27 tháng 10 năm 1976. Năm 1994, theo nghị định số 30/CP ngày 4/4/1994 của Thủ tướng chính phủ, Trường Đại học Sư phạm Huế đã trở thành một trong những trường thành viên của Đại học Huế. Trường Đại học Sư phạm Huế tọa lạc số 34, đường Lê Lợi, thành phố Huế. Phía Bắc giáp đường Lê Lợi, phía Nam giáp đường Trần Cao Vân, phía Đông giáp đường Hùng Vương, phía Tây giáp đường Đội Cung. Trường có 384 cán bộ, trong đó có 245 giảng viên: 18 phó giáo sư, 76 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 111 thạc sĩ, 102 giảng viên chính và 03 chuyên viên chính..
  • Di tích Khâm thiên Giám, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Chợ Đông Ba nằm dọc theo bờ bắc sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía bắc. Chợ Đông Ba là trung tâm thương mại lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên - Huế và khu vực. Trước khi có chợ Ðông Ba, bên ngoài cửa Chánh Ðông (tức cửa Ðông Ba theo cách gọi dân gian) dưới thời Gia Long có một cái chợ lớn mang tên "Qui giả thị". Tên cái chợ này đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của quan quân nhà Nguyễn. Thời Quang Toản loạn lạc, nhân dân chạy tứ tán, đến đầu triều Nguyễn thái bình, nhân dân trở lại từ khắp nơi. Qui Giả là ngôi chợ của những người trở về. Gần một thế kỷ sau, mùa hè năm 1885, Kinh đô thất thủ, chợ Qui Giả bị giặc Pháp đốt sạch. Ðến năm 1887 vua Ðồng Khánh cho xây lại chợ và đổi tên là Ðông Ba. Chợ cung cấp thực phẩm cho cung điện, nhà thương, đồn lính, ký túc xá các trường Quốc học, Ðồng Khánh, Bình Linh, Thiên Hựu. Ðến năm 1899, trong công cuộc chỉnh trang đô thị theo phong cách phương Tây, vua Thành Thái cho đem chợ ra chỗ bây giờ, đình chợ cũ trở thành trường Pháp Việt Ðông Ba. Chợ Ðông Ba thời Thành Thái gồm có 4 dãy quán: trước, sau, phải, trái. Mặt trước một dãy 8 gian, mặt sau một dãy 12 gian, dãy phía tay phải 13 gian... đều lợp ngói. Giữa chợ có một toà lầu vuông, ba tầng. Tầng dưới có 4 bức tường, mỗi tường có 2 cửa. Tầng trên 4 mặt đều có cửa, đều có mặt đồng hồ để điểm giờ khắc. Trong chợ xây một giếng đá, có hệ thống máy giúp cho việc múc nước. Khi lấy nước dùng tay quay máy, tự nhiên nước trong giếng tràn lên, phun ra. Ðầu thế kỷ 20, chợ Ðông Ba được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ cốt cách cũ. Ðến năm 1967, chính quyền Sài Gòn cho triệt hạ chợ cũ và xây lại chợ mới. Công trình đang dang dở thì bị bom pháo Mỹ trong chiến dịch Huế Xuân 1968 bắn phá tan tành. Sau đó chính quyền Sài Gòn cho sửa chữa tạm để buôn bán. Ðến năm 1987, chợ Ðông Ba được đại trùng tu. Ngoài lầu chuông ở trung tâm, chợ Ðông Ba mới có 9 dãy nhà bao quanh cùng 4 khu hàng mới, như chợ cá, khu hàng tự sản, tự tiêu, khu hàng dịch vụ... với tổng diện tích mặt bằng xây dựng 15.597m². Ngoài ra ban quản lý chợ còn quản lý khu Hoa Viên Chương Dương, các bến bãi đỗ xe ôtô, xe lam, nơi giữ xe đạp, xe máy... nâng tổng diện tích mặt bằng thuộc chợ lên trên 47.614m² với 2.543 hộ kinh doanh cố định, 141 lô bạ, 500 - 700 hộ buôn bán rong. Bình quân mỗi ngày có từ 5.000 đến 7.000 khách đến chợ. Vào những dịp lễ tết, chợ đông hơn, có trên 1,2 vạn người. Những tinh tuý văn hoá vật chất của Thừa Thiên - Huế còn giữ được cho đến nay đều có thể tìm thấy ở chợ Ðông Ba như: nón lá Phú Cam, dao kéo Hiền Lương, đồ kim hoàn Kế Môn, mè xửng Song Hỷ, dâu Truồi, chè Tuần, quít Hương Cần, thanh trà Lại Bằng, sen khô hồ Tịnh, hàng mã hoa giấy làng Sình… và cả những món ăn Huế truyền thống, bình dân như: cơm hến, bún bò, bánh lá, chả tôm, bánh khoái, chè đậu ván...Chợ Ðông Ba đã trở thành trung tâm cung cấp những sơn hào hải vị cho các nhà hàng, khách sạn quốc tế, bán các món đặc sản Huế cho khách du lịch từ bốn bể năm châu đến tham quan di sản thế giới tại Huế. Ngày nay chợ Ðông Ba giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ngoài nhiệm vụ cung cấp thực phẩm và hàng tiêu dùng cho thành phố, chợ Ðông Ba còn là nơi tạo việc làm cho hàng ngàn người thất nghiệp và đóng vào ngân sách nhà nước mỗi năm hàng chục tỷ đồng tiền thuế. Chợ Ðông Ba, cầu Trường Tiền cùng với sông Hương là biểu tượng của xứ Huế thơ mộng
  • Hoàng Thành (Ðại Nội), haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Kinh thành Huế được xây dựng gần 30 năm (từ 1803 đến 1832), là một dãy thành lũy dài cao 6,60m, dày 21m, với chu vi gần 9.000m. Trên mặt thành ngày xưa có tới 24 pháo đài.Bên ngoài, dọc theo bờ thành có hào sâu bảo vệ. Kinh thành liên lạc với bên ngoài qua 8 cửa trổ theo 8 hướng: Chính Ðông, Chính Tây, Chính Nam, Chính Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Ðông Bắc, Ðông Nam. Ngoài ra hai bên Kỳ Ðài còn có hai cửa Thể Nhơn và Quảng Ðức. Ngoài ra còn có hai cửa bằng đường thủy ở hai đầu sông Ngự Hà là Ðông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Phía Hoàng Thành ở góc đông bắc có một thành nhỏ, thời Gia Long gọi là Thái Bình, đến thời Minh Mạng đổi thành Trấn Bình Ðài có chu vi gần 1km, bên ngoài có hào rộng ăn thông với hào của Hoàng Thành. Theo nguyên tắc địa lý phong thủy của Ðông Phương và thuyết âm dương - ngũ hành của Dịch học. Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng 2 hòn đảo nhỏ trên sông Hương (Cồn Hến - Cồn Dã Viên) làm rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long - Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ đế đô. Dòng Sông Hương chảy ngang trước mặt dùng làm Minh Ðường. Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi là sông Hộ Thành. Ở trong lòng Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Ðại Nội. Hoàng Thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử Cấm thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh họat hàng ngày của nhà vua và gia đình.. Ðược xây dựng từ 1804-1833, Ðại Nội có mặt bằng xây dựng theo hình gần vuông, mặt trước và mặt sau dài 622m, mặt trái và phải 604m. Thành xung quanh xây bằng gạch (cao 4,16m, dày 1,04m), bên ngoài có hệ thống hộ thành hào, gọi là Kim Thủy Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt trổ một cửa để ra vào: Ngọ Môn (trước), Hòa Bình (sau), Hiển Nhơn (trái), Chương Ðức (phải). Cửa chính của Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi. Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Ðại Nội chia thành nhiều khu vực khác nhau: .• Từ Ngọ Môn đến Ðiện Thái Hòa làm nơi cử hành các lễ lớn của triều đình. • Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Ðiện Phụng Tiên là nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn. • Cung Diên Thọ và Cung Trường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái Hậu. • Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng hoàng gia. • Vườn Cơ Hạ và Ðiện Khâm Văn là nơi các Hoàng tử học tập và chơi đùa. Tử Cấm Thành: Có mặt bằng cũng gần vuông, cao 3,7m, mặt trước và sau dài 324m; mặt trái và phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua ra vào, hiện nay đã hư hại hoàn toàn. Bức bình phong to rộng dăng ngang sau lưng điện Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày) là dấu hiệu cho biết thế giới sau đó chỉ dành riêng cho vua và gia đình. Trong đó có hàng trăm cung nữ và hàng chục thái giám thường trú để phục vụ hoàng gia. Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc vàng son lộng lẫy bao gồm: điện Càn Thành (nơi vua ở), điện Khôn Thái (nơi vợ chính vua ở), Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách), điện Quang Minh (nơi ở các hoàng tử), điện Trinh Minh (nơi các hoàng hậu ở), điện Kiến Trung, vườn Cẩm Uyển... Hệ thống kiến trúc ở Ðại Nội đã được hoạch định theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối: chia ra các vị trí tiền, hậu, tả, hữu, thượng, hạ, chiêu mục tất cả đều nhất quán. Nó thể hiện những khái niệm về triết lý chính trị Nho giáo phương đông. Phần lớn các công trình kiến trúc ở đây đều làm bằng gỗ quý, nhưng cũng không chịu đựng nổi với thiên tai, khí hậu khắc nghiệt hàng thế kỷ qua và các cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Cho nên một số công trình đã bị hư hỏng, các di tích quý này hiện nay đang được Nhà nước quan tâm đầu tư kinh phí để phục hồi, tôn tạo lại từng bước. Ngày 12.2.1996, "DỰ ÁN QUI HOẠCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH CỐ ÐÔ HUẾ 1995 - 2010" đã được chính phủ Việt Nam phê duyệt với tổng vốn đầu tư 720 tỷ đồng (tương đương gần 60 triệu USD). Ðây là một dự án khá đồ sộ và toàn diện nhằm mục đích bảo tồn, khôi phục, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế về cả mặt văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và cảnh quan môi trường. Nếu dự án được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và có chất lượng thì chắc chắn Huế sẽ rất xứng đáng với sự tôn vinh: DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI.
  • Núi Ngự Bình, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Sách " Đại Nam Nhất Thống Chí " của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn viết " Phía Đông bắc Hương Thuỷ, nổi vọt lên ở quãng đất bằng " như hình bức bình phong làm lớp án thứ nhất trước kinh thành, tục gọi là núi Bằng, đời Gia Long đặt cho tên hiện nay (Ngự Bình), đỉnh núi bằng phẳng, khắp nơi trồng thông" Núi Ngự Bình cao 105 m, dáng cân đối uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn được thành lập, quyết định xây dựng kinh thành Huế, thấy Bằng Sơn như một bức bình phong án ngữ trước mặt, Gia Long chấp nhận đồ án của các thầy địa lý: chọn núi này làm tiền án của hệ thống phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình. Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thuỷ hữu tình của Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương - núi Ngự, miền Hương Ngự cũng vì vậy. Từ bao thế hệ, lớp lớp tao nhân mặc khách từng coi đây là chốn thưởng ngoạn thiên nhiên kỳ thú. Vào những ngày đẹp trời, đứng trên đỉnh Ngự Bình, có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh thành phố với cung điện nguy nga, mái chùa cổ kính và dòng sông Hương xanh biếc uốn lượn quanh co. Ngay trước tầm mắt là các khu đồi, là rừng thông bát ngát tiếp đến một vùng đồng bằng rộng lớn của các huyện: Hương Thuỷ, Phú Vang, Hương Trà cỏ cây xanh rờn...,xa hơn là dãy Trường Sơn trùng điệp một màu tím thẫm ẩn hiện sau những tầng mây bạc. Nhìn về phía Ðông, dải cát trắng mờ phía xa cửa Thuận An với màu xanh thăm thẳm của biển Ðông... Cách núi Ngự Bình vài km là đồi Vọng Cảnh, một danh thắng khác của Huế, đứng soi bóng duyên dáng bên dòng sông Hương, nhìn qua núi Ngọc Trản. Từ đồi Vọng Cảnh có thể nhìn thấy những khu vườn cây ăn quả mướt xanh của cau, nhãn , cam, quýt, thanh trà,...chen lẫn bóng thông, những mái nhà ngói xám của đền chùa, lăng tẩm cổ kính, trầm mặc....Sông Hương như một dải lụa mềm uốn quanh dưới chân đồi...Du khách có dịp đến đây vào buổi bình minh sương tan hay lúc hoàng hôn, mới hiểu hết và thấm thía vẻ đẹp nên thơ, nên hoạ của một ngọn đồi, một khúc sông, một góc trời xứ Huế.
  • Cửa Thuận An, haidang54 đã viết 15 năm trước:
    Pháp đánh Thuận An Trận Cửa Thuận An (20 tháng 8 năm 1883) là trận đánh giữa quân Pháp và Đại Nam, trong thời gian xung đột trước khi Chiến tranh Pháp-Thanh (tháng 8 năm 1884 tới tháng 4 năm 1885) bùng nổ. Trong trận này một lực lượng đổ bộ của Pháp dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Amédée Courbet tiến công các pháo đài ven biển, bảo vệ đường sông tới kinh đô Huế. Ngày 16 tháng 8 năm 1883, một hạm đội nhỏ gồm 7 tàu chiến, trong đó có hai tàu bọc thép, chở hơn một ngàn quân Pháp do Đô đốc Amédé Coubert chỉ huy tiến vào cảng Đà Nẵng. Hai ngày sau, quân Pháp dùng thuyền đi ngược lên sông Hương bắn phá pháo đài Trấn Hải của quân Nam. Quân Nam bắn lại suốt ngày hôm đó, nhưng do vũ khí quá thua kém nên đến cuối ngày các pháo lũy đều bị phá hủy, lực lượng phòng thủ bị tổn thất hết mà quân Pháp không bị thiệt hại gì, quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân nhảy xuống sông tự tử. Quân Pháp chiếm được cửa Thuận An (Huế). Dưới sức ép quân sự của Pháp, ngày 25 tháng 8, nhà Nguyễn phải chấp thuận ký hòa ước với Pháp, theo đó chấp thuận sự bảo hộ của Pháp tại Bắc Kỳ. Tuy nhiên các quan chủ chiến của nhà Nguyễn vẫn còn ở miền Bắc, và quân Cờ đen còn rất mạnh, nên chiến sự tiếp diễn. Cuộc tấn công của quân Pháp vào tháng 8 năm 1883, dưới thời chính phủ Jules Ferry ở Paris, khiến cuộc chiến tranh Pháp-Thanh trở nên không thể tránh khỏi, và gieo mầm cho nổi dậy của phong trào Cần Vương tháng 7 năm 1885.